Gieo trồng và sử dụng Bạch_quả

Lá bạch quả vào mùa thu

Bạch quả được trồng từ lâu tại Trung Quốc; một số cây trồng tại các ngôi chùa được coi là có trên 1.500 năm tuổi. Ghi chép đầu tiên của người châu Âu về bạch quả có vào năm 1690 trong các vườn chùa ở Nhật Bản, khi nhà thực vật học người Đức là Engelbert Kaempfer nhìn thấy cây này. Do bạch quả được coi là cây thánh trong cả Phật giáo lẫn Nho giáo, nên nó được trồng rộng rãi tại Triều Tiên và một số khu vực tại Nhật Bản; và trong cả hai khu vực này thì một số trường hợp tự nhiên hóa đã diễn ra, với bạch quả gieo rắc giống trong các khu rừng tự nhiên.

Ở một số khu vực, đáng chú ý là Hoa Kỳ, những cây bạch quả được gieo trồng có chủ định nhiều nhất là các giống cây đực được ghép trên các cây trồng từ hạt, do các cây đực không sinh ra hạt nặng mùi. Giống cây trồng phổ biến 'Autumn Gold' là dòng vô tính của cây đực.

Bạch quả là cây chính thức của thành phố Kumamoto, và hai lá của nó tạo thành biểu tượng của Đại học Tokyo, khu trường sở chính của đại học này cũng có một số cây bạch quả.

Bạch quả cũng là loại cây phổ biến để trồng trong bồn cảnh và trong nghệ thuật bonsai; chúng có thể được giữ một cách nhân tạo ở dạng nhỏ trong nhiều thế kỷ. Ngoài ra, chúng cũng dễ dàng nhân giống bằng hạt.

Các ví dụ về sự ngoan cường của bạch quả có thể thấy tại Hiroshima, Nhật Bản, nơi có 4 cây mọc cách vụ nổ bom nguyên tử năm 1945 chỉ 1–2 km. Chúng nằm trong số chỉ rất ít các sinh vật trong khu vực còn sống sót sau vụ nổ [10]. Trong khi phần lớn các động, thực vật khác bị tiêu diệt thì bạch quả, mặc dù bị đốt cháy, nhưng vẫn sống sót và phục hồi nhanh chóng. Hiện nay, chúng vẫn còn sống.

Ẩm thực

Bạch quả trong bồn cảnh tại Vườn thực vật Montreal.

Thể giao tử tựa quả kiên bên trong hạt được coi trọng tại châu Á, và nó là một trong các thực phẩm truyền thống của người Trung Quốc. Trong tiếng Trung nó được gọi là 银杏 ("ngân hạnh") hay 白果 ("bạch quả" như tên gọi của nó trong tiếng Việt. Hạt bạch quả được sử dụng trong món cháo, và thường được làm trong các dịp đặc biệt như lễ cưới hay Tết Nguyên Đán (một phần của món ăn chay gọi là La Hán thái (罗汉菜)). Trong văn hóa Trung Quốc, người ta tin rằng bạch quả có các tác dụng tốt với sức khỏe; một số người còn cho rằng nó có tác dụng kích thích tình dục. Trong ẩm thực Nhật Bản, người ta thêm hạt bạch quả (gọi là ginnan) vào các món ăn như chawanmushi (茶碗蒸し), và hạt đã chế biến thường được ăn cùng các món khác. Hạt bạch quả cũng có sẵn ở dạng đóng hộp, được bán dưới tên gọi "White Nuts", và có thể thấy ở nhiều cửa hàng thực phẩm châu Á tại phương Tây.

Khi trẻ em dùng với một lượng lớn (trên 5 hạt mỗi ngày), hay trong một thời gian dài, thể giao tử tươi (thịt) của hạt có thể gây ra ngộ độc MPN (4-methoxypyridoxin). MPN là chất ổn định về mặt nhiệt. Các nghiên cứu chứng minh rằng chứng co giật do MPN gây ra có thể ngăn ngừa hay hóa giải bằng pyridoxin.

Một số người mẫn cảm với các hóa chất trong lớp vỏ ngoài (sarcotesta). Những người này khi phải tiếp xúc với hạt cần cẩn thận như đeo găng tay dùng một lần. Các triệu chứng là chứng viêm da hay bỏng giộp tương tự như khi tiếp xúc với sơn độc (Toxicodendron radicans). Tuy nhiên, hạt không còn cùi thịt lại là an toàn để tiếp xúc.

Một cây bạch quả tại Tournai (Bỉ).

Y học

Các chất chiết ra từ lá bạch quả chứa các flavonoit-glicozit và các terpenoit (ginkgolit, bilobalit) và được sử dụng trong dược phẩm. Chúng có nhiều tính chất được coi là tăng độ minh mẫn, và được sử dụng chủ yếu như là các chất làm tăng trí nhớ và sự chú ý, cũng như là tác nhân chống chóng mặt. Tuy nhiên, các nghiên cứu lại đưa ra các kết quả rất khác nhau về hiệu quả. Một số tranh luận đã nảy sinh về các kết luận mà một số nghiên cứu đưa ra mà người ta cho rằng được các hãng tiếp thị cho bạch quả tài trợ. Slate, một tạp chí trên Internet do Công ty The Washington Post sở hữu, báo cáo tháng 4 năm 2007:

Năm 2002, một bài báo xuất hiện trên JAMA (Tạp chí của Hiệp hội Y học Hoa Kỳ) với tiêu đề "Ginkgo for memory enhancement: a randomized controlled trial." Đây là nghiên cứu của Cao đẳng Williams, do Viện tuổi già quốc gia Hoa Kỳ (NIA) bảo trợ, đã kiểm tra các hiệu ứng của việc dùng bạch quả đối với những tình nguyện viên mạnh khỏe và trên 60 tuổi. Kết luận, được trích dẫn trong bảng dữ liệu về bạch quả của Viện sức khỏe quốc gia Hoa Kỳ (NIH), cho rằng: "Khi sử dụng tuân thủ theo chỉ dẫn của nhà sản xuất, bạch quả không đem lại lợi ích có thể đo đạc được về trí nhớ hay các chức năng nhận thức liên quan đối với những người lớn với chức năng nhận thức lành mạnh."

Bên ngoài những kết quả còn mâu thuẫn, các chất chiết từ bạch quả có thể có ba tác dụng đối với cơ thể người: cải thiện lưu thông máu (bao gồm cả vi tuần hoàn trong các mao mạch nhỏ) đến phần lớn các mô và cơ quan; bảo vệ chống lại các tổn thương tế bào do ôxi hóa các gốc tự do; và nó ngăn chặn nhiều tác động của tác nhân hoạt hóa tiểu huyết cầu (tụ tập tiểu huyết cầu, vón cục máu)[11] có liên quan tới sự phát triển của một loạt các rối loạn tim mạch, thận, hô hấp và hệ thần kinh trung ương. Bạch quả cũng có thể dùng để điều trị chứng tê liệt rời rạc.

Theo một số nghiên cứu, trong một vài trường hợp, bạch quả có thể cải thiện đáng kể sự tập trung ở các cá nhân mạnh khỏe[12][13]. Tác dụng gần như là ngay tức thì và đạt tới đỉnh điểm trong vòng 2,5 h sau khi dùng[14].

Tại Việt Nam, nhiều bài thuốc được nghiên cứu với mục đích giúp tăng cường tuần hoàn máu não, cải thiện tình trạng giảm trí nhớ, tập trung, đau đầu. Trong đó các sản phẩm như Ích Trí Minh, Hoàn ích Trí... là thành quả của y học cổ truyền với chiết xuất từ cao lá bạch quả.

Một bài thuyết trình tại hội nghị năm 2004[15] đã tổng quát hóa kết quả các thử nghiệm khác nhau cho thấy bạch quả có triển vọng trong điều trị bệnh Alzheimer, mặc dù cần có thêm các nghiên cứu bổ sung.

Bạch quả cũng thường được bổ sung trong một số loại đồ uống tăng lực, nhưng lượng bổ sung thông thường là quá thấp nên không có các tác dụng đáng kể nào, ngoại trừ có lẽ là thông qua tác dụng làm yên lòng do có liệt kê bạch quả trên tem mác. Tuy nhiên, một hộp 454 g (16 oz.) đồ uống tăng lực Rockstar chứa khoảng 300 mg Ginkgo biloba.

Các chất bổ sung Ginkgo thông thường chỉ cần khoảng 40–200 mg trên ngày.

Hiệu ứng phụ

Bạch quả có thể có tác động phụ không mong muốn, đặc biệt là ở các cá nhân với các rối loạn tuần hoàn máu và ở những người sử dụng các thuốc chống đông máu như aspirinwarfarin, mặc dù các nghiên cứu gần đây cho thấy bạch quả có ít hay không có tác động đối với tính chất chống đông hay dược động lực học của warfarin[16][17]. Bạch quả cũng không nên dùng cho những người đang dùng các chất ức chế monoamin oxidaza (MAOI) hay cho các phụ nữ đang mang thai mà không có sự tư vấn của bác sĩ chuyên môn.

Các hiệu ứng phụ của bạch quả có thể là: tăng rủi ro chảy máu, khó chịu đường ruột, buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy, đau đầu, hoa mắt chóng mặt, đánh trống ngực, bồn chồn.[18] Nếu có bất kỳ tác dụng phụ nào cần dừng ngay việc sử dụng bạch quả.

Ginkgo biloba trong công viên Morlanwelz-Mariemont, Bỉ.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Bạch_quả http://www.chs.usyd.edu.au/conf04/ http://www.chs.usyd.edu.au/conf04/submit/minipost/... http://www.cirrusimage.com/tree_Ginkgo.htm http://www.drugs.com/npp/ginkgo.html http://www.naturaldatabase.com/nd/Search.aspx?samp... http://www.slate.com/id/2165042/pagenum/all/ http://www.springerlink.com/content/ggk68t2cau2dpm... http://www.planet-weimar.de/english/index.html http://www.biologie.uni-hamburg.de/b-online/fo47/g... http://www.ucmp.berkeley.edu/IB181/VPL/CorCon/CorC...